VỊ THUỐC ĐƯƠNG QUY
( Radix Angeliae Sinensis)
Đương qui còn gọi là Tần qui, Vân qui, Xuyên qui được ghi đầu tiên trong sách Bản kinh là rễ phơi khô hay sấy khô của cây Đương qui ( Angelica Sinensis (Oliv) Diels; Angelica Polymorpha Maxim var sinensis Oliv.) thuộc họ Hoa tán Apiaceae ( Umbelliferae).
Trên thị trường đông dược hiện nay..có phân chia ra rất nhiều loại : đương quy đầu là mắc tiền nhất, sau đó là Quy điều, quy đuôi là phần rễ củ đương quy, quy ép, Nam đương quy...v.v. mỗi loại có công dụng chữa trị khác nhau.
Tính vị qui kinh:Vị ngọt cay ôn, qui kinh Can Tâm Tỳ.
Theo Y văn cổ:
Sách Bản kinh: vị ngọt ôn.
Sách Danh y biệt lục: cay, đại ôn, không độc.
Sách Bản thảo thuật: vị đắng, ôn, không độc.
Sách Thang dịch Bản thảo: nhập thủ thiếu âm, quyết âm kinh.
Sách Lôi công bào chế dược tính giải: nhập Tâm can phế.
Thành phần chủ yếu:
Butylidene phthalide, n-valerophenone-o-carboxylic acid, dihydrophthalic, sucrose, vitamine B12, carotene, beta-sitosterol.
Tác dụng dược lý:
A.Theo Y học cổ truyền:
Đương qui có tác dụng bổ huyết, hoạt huyết, chỉ huyết. Chủ trị chứng tâm can huyết hư, kinh nguyệt không đều, đau kinh, tắt kinh, các bệnh thai tiền sản hậu, tổn thương do té ngã, đau tê chân tay (tý thống ma mộc), nhọt lở lóet (ung thư sang thương), chứng huyết hư trường táo kiêm trị khái suyễn.
Trích đoạn Y văn cổ:
Sách Bản kinh: " chủ khái nghịch thượng khí, ôn ngược hàn nhiệt tại bì phu, phụ nhân lậu hạ, tuyệt tử, chư ác sang thương kim sang".
Sách Danh y biệt lục: " ôn trung chỉ thống, trừ khách huyết nội bế, trúng phong kinh, không ra mồ hôi, thấp tý, trúng ác khách khí, hư lãnh, bổ ngũ tạng, sinh cơ nhục".
Sách Dược tính bản thảo: " chỉ ẩu nghịch hư lao hàn nhiệt, phá ứ huyết, bổ bất túc, chỉ lî phúc thống".
Sách Nhật hoa tử bản thảo: " trị các chứng lao, phá các huyết, dưỡng tân huyết, chủ trưng tích".
Sách Y học khởi nguyên: " Dược loại pháp tượng, Đương qui kỳ dụng hữu tam, tâm kinh bản dược dã, hóa huyết nhị dã, trị chu bệnh da thâm tam dã".
Sách Bản thảo cương mục: " trị đầu thống, tâm phúc chỉ thống, nhuận trường vị cân cốt bì phu. Trị ung thư, bài nùng chỉ thống, hòa huyết, bổ huyết".
Sách Cảnh nhạc toàn thư, bản thảo chính: " Đương qui vị ngọt mà nặng, nên chuyên bổ huyết, khí nhẹ mà cay nên hành huyết, bổ trung hữu động, hành trung hữu bổ, thành huyết trung chi khí dược, huyết trung chi thần dược dã., lúc dùng bổ, thuốc có tác dụng dưỡng vinh bổ huyết, bổ khí sinh tân, an ngũ tạng, cường hình thể, ích thần chí, đối với bệnh hư tổn, không bệnh nào là không dùng được. Lúc dùng thông, thuốc có tác dụng khử thống tiêu tiện, lợi cân cốt, trị chân tay co quắp, bại liệt, các chứng táo, sáp. Trường hợp âm trung hỏa thịnh, Đương qui dùng làm động huyết, không nên dùng, âm trung dương hư, Đương qui dưỡng huyết nên không thể thiếu được. Nếu huyết trệ mà sinh lî thì nên dùng. Tiểu nhi đậu chẩn kinh giản thuộc chứng dinh hư không thể thiếu được Đương qui".
B.Kết quả nghiên cứu dược lý hiện đại:
Đương qui có tác dụng 2 chiều đối với tử cung. Chất tan vào nước hoặc cồn không phải tinh dầu có tác dụng hưng phấn tử cung cô lập; còn chất bốc hơi sôi ở nhiệt độ cao và dầu Đương qui có tác dụng ức chế và lúc áp lực trong tử cung cao thì thuốc làm tăng co bóp tử cung. Đương qui còn có tác dụng tăng gia sự tổng hợp protid khiến tử cung dày lên. Đương qui còn có khả năng chống sự thiếu hụt vitamin E phòng ngừa sẩy thai nhưng không thể hiện rõ tác dụng như oestrogen.
Dịch ngâm Đương qui cho chuột nhắt làm tăng huyết sắc tố và hồng cầu. Tác dụng này có quan hệ với hàm lượng vitamin B12 và acid folic trong Đương qui.
Đương qui có tác dụng làm dãn động mạch vành, tăng lưu lượng máu của động mạch vành, giảm tiêu hao lượng oxy của cơ tim, giảm ngưng tập của tiểu cầu, chống sự hình thành huyết khối, có tác dụng làm giảm rối loạn nhịp tim và hạ lipid huyết. Đương qui có tác dụng làm dãn huyết quản ngoại vi, làm dịu co thắt cơ trơn của huyết quản ngoại vi, tăng lưu lượng máu; vì thế mà Đương qui có tác dụng giảm đau . Tinh dầu Đương qui làm huyết áp tăng nhưng chất hòa tan trong nước thì làm hạ huyết áp.
Tác dụng chống viêm: nước chiết xuất Đương qui giảm thấp tính thẩm thấu của huyết quản, ức chế các chất gây viêm của tiểu cầu như 5TH phóng ra.
Tác dụng giảm đau, an thần do tinh dầu Đương qui.
Đương qui có tác dụng làm tăng chức năng miễn dịch không đặc hiệu của cơ thể, tăng khả năng thực bào của đại thực bào, thúc đẩy sự chuyển dạng Lympho bào.Nhưng cũng có người cho rằng Đương qui có tác dụng ức chế miễn dịch.
Có tác dụng lợi tiểu do thành phần đường mía trong Đương qui, cao nước thô của Đương qui có tác dụng hưng phấn đối với cơ trơn ruột non và bàng quang của súc vật thí nghiệm.
Có tác dụng làm dãn cơ trơn phế quản và làm giảm cơn hen (bình suyễn).
Có tác dụng bảo vệ gan, phòng ngừa glycogen gan giảm thấp.
Tác dụng kháng khuẩn: nước sắc Đương qui có tác dụng ức chế các loại trực khuẩn coli, lî, thương hàn, phó thương hàn, phẩy khuẩn tả, trực khuẩn bạch hầu, liên cầu khuẩn tán huyết. Tinh dầu Đương qui có tác dụng ức chế tụ cầu khuẩn vàng, trực khuẩn coli, trực khuẩn lî Flexner, trực khuẩn mủ xanh.
Có tác dụng phòng chống thiếu vitamin E trích yếu văn kiện nghiên cứu Trung dược, nhà xuất bản Khoa học 1965, tr265).
Về tác dụng đối với huyết áp, có tài liệu nói: theo Schmidt, Y Bác An và Trần khắc Khôi (1924, Chinese Med.J 38, 362), tinh dầu của Đương qui có tác dụng hạ huyết áp, nhưng thành phần không bay hơi của Đương qui lại có tính chất làm co cơ trơn ở thành mạch máu làm cho huyết áp tăng cao.
Đương qui có tác dụng nhuận tràng thông tiện.
Ứng dụng lâm sàng:
Đương qui là vị thuốc dùng nhiều nhất trên lâm sàng Đông y. Trường hợp cần dưỡng huyết thông mạch thì dù là huyết chứng, hư chứng, biểu chứng hay ung nhọt ngoài da đều dùng được Đương qui.
1.Đối với phụ khoa: Đương qui là chủ dược, chủ yếu dùng điều kinh, đối với đau kinh dùng rất hay, thường phối hợp với Bạch thưọc, Xuyên khung, Hương phụ. Nói chung các bài thuốc không thể thiếu Đưong qui.
Tứ vật thang ( Qui Thục Khung Thược): là bài thuốc chính để điều huyết ( lý huyết). Trị các chứng huyết hư, huyết ứ, kinh nguyệt không đều, các chứng tai biến tiền sản hậu đều trên cơ sở bài thuốc đó mà gia giảm.
2.Dùng Đương qui dưỡng huyết: đối với chứng Tâm huyết hư ( hồi hộp, dễ quên, mất ngủ, tâm phiền, bứt rứt.) thường dùng bài:
Đương qui bổ huyết thang ( Nội ngoại thương biên hoạt luận): Đương qui 8g, Hoàng kỳ 30 - 40g, sắc nước uống.
Trường hợp tỳ huyết hư (da vàng bủng, người gầy, ăn kém) dùng bài:
Tứ vật thang ( Hòa tể cục phương): Thục địa 12g, Đương qui 8g, Bạch thược 8g, Xuyên khung 4g, sắc uống.
Trường hợp can huyết hư ( đau váng đầu, hoa mắt, ù tai, chân tay co rút.) dùng bài:
Nhất quán tiễn ( Liễu châu y thoại): Đương qui thân 12g, Bắc Sa sâm 12g, Mạch môn 8g, Sinh địa 8g, Kỷ tử 16g, Xuyên luyện tử 4 - 6g, sắc uống.
3.Trị ứ huyết chân tay do té ngã chấn thương: phần mềm sưng đau, hoặc viêm tắc động mạch, dùng Đương qui hoạt huyết trục ứ, dùng bài:
Hoạt lạc hiệu linh đơn: Đơn sâm 20g, Đương qui 12g, Nhũ hương 6g, Mộc dược 6g, sắc uống. Bài thuốc này trị được đau bụng.
4.Trị đau lưng do khí huyết ứ trệ kiêm hư hàn: thường gặp sau đẻ đau bụng, dùng bài:
Đương qui kiến trung thang ( Thiên kim dực phương): Đương qui 16g, Quế chi 8g, Bạch thược 16g, Bột Cam thảo 10g, Sinh khương 4g, Hồng táo 20g, Đường phèn 40g, hòa với thuốc sắc uống. Hoặc bài:
Đương qui sinh khương dương nhục thang ( Kim quỉ yếu lược): Thịt dê 200g, Đương qui 40g, Gừng tươi 20g, chưng cách thủy hoặc sắc nước uống ấm.
Trường hợp đau do ứ trệ ( đau bụng kiết lî hoặc đau bụng kinh ở phụ nữ) dùng bài gia vị Đương qui Thược dược tán:
Đương qui 12g, Bạch thược 16g, Xuyên khung 8g, Bạch truật, Bạch linh, Trạch tả mỗi thứ 12g, Hương phụ 8g, Diên hồ sách 8g, sắc uống.
5.Trị ung nhọt kéo dài ( ung thư, thóat thư, lở kéo lóet kéo dài khó lành, viêm tắt động mạch.) dùng bài:
Tứ diệu dũng an thang ( Nghiệm phương tân biên) gia vị: Huyền sâm 16g, Đương qui 12g, Kim ngân hoa 16 - 20g, sinh Cam thảo 4 - 8g, gia Bồ công anh 16g, Đơn sâm 12g, Xích tiểu đậu 12g, Xuyên sơn giáp 12 - 16g, Địa long 8 - 12g. Trường hợp thóat thư ứ huyết nặng gia Đào nhân 12g, Hồng hoa 8 - 10g, khí hư gia Hoàng kỳ 12 - 16g, Đảng sâm 12g.
6.Trị táo bón do khí hư: dùng bài Tế xuyên tiễn ( Cảnh nhạc toàn thư):
Tế xuyên tiễn: Đương qui 16g, Xuyên Ngưu tất 8 - 12g, Nhục thung dung 12g, Trạch tả 12g, Thăng ma 3g, Chỉ xác 6g, sắc uống.
Đương qui (sao với dầu mè 40g) sắc uống.
Nhuận tràng hoàn: Đương qui vĩ 12g, Đại hoàng 6 - 10g, Đào nhân, Ma nhân mỗi thứ 20 - 30g, Khương hoạt 16g, tán bột mịn luyện mật uống 8g x 2 lần/ngày, uống sáng tối trước lúc ngủ. Trị chứng bón do huyết táo.
7.Trị hen suyễn: dùng bài Kim thủy lục quân tiễn ( Cảnh nhạc toàn thư): Đương qui 8g, Thục địa 16 - 20g, Trần bì 12g, Khung Bán hạ 8 - 12g, Bạch linh 12g, Chích Cam thảo 6g, Sinh khương 3 lát, sắc uống.
Uống cao Đương qui mỗi ngày 9 - 10g, chia 3 lần, 10 ngày là một liệu trình. Đã theo dõi kết quả 24 ca phế khí thũng, 26 ca phế khí thũng có biến chứng tâm phế mạn sau 5 - 6 liệu trình có kết quả tương đối tốt, lượng thông khí được cải thiện rõ, hết hoặc giảm ho đờm rõ ( Phạm Huyện, Quan sát Đương qui trị Phế khí thũng và phế khí thũng có biến chứng tâm phế mạn - Học báo Trung y học viện Hà nam 1978,2:31).
8.Trị rối loạn nhịp tim: Tác giả dùng dịch tiêm Đương qui 25 - 50% 60 - 120ml chích trực tiếp vào tĩnh mạch hoặc truyền ngày 1 lần hoặc dùng sirô Đương qui 150% uống 20ml x 3 lần/ngày, 15 ngày là một liệu trình. Đã trị 100 ca rối loạn nhịp tim trong đó 70 ca rối loạn nhịp thất 30 ca, có kết quả 25 ca ( tỷ lệ kết quả 83,3%). Trị 3 ca rung nhĩ, kết quả rõ 1 ca ( Tưởng Tích Gia và cộng sự, sơ bộ quan sát 100 ca rối loạn nhịp tim điều trị bằng Đương qui, Trung y tạp chí 1981,7:54).
9.Trị xơ cứng động mạch não: dùng dịch tiêm phức phương Đương qui 40ml ( mỗi 100ml có: Đương qui10g, Xuyên khung 10g, Hồng hoa8g) cho vào 60ml dịch muối sinh lý truyền tĩnh mạch 40 - 60 giọt/phút, ngày 1 lần hoặc mỗi ngày chích bắp 4ml ( mỗi 10ml có: Đương qui 2,5g, Xuyên khung 2,5g, Hồng hoa 5g), ngày 1 lần; 25 lần là một liệu trình. Đã trị 52 ca, trong đó truyền tĩnh mạch 33 ca, kết quả rõ 13 ca, tiến bộ 19 ca, tỷ lệ kết quả 84,2% ( Khoa Thần kinh Tổng Y viện Quân khu Thẩm dương, Sơ bộ nhận xét 52 ca xơ cứng mạch máu não điều trị bằng phức phương Đương qui, Tân Trung y 1977,1:23).
10.Trị đau nửa đầu: mỗi lần uống Đương qui tố 100mg, ngày 3 lần. Đã theo dõi 35 ca, có kết quả 82,9% (Đường vạn Nghi và cộng sự, theo dõi kết quả điều trị đau nửa đầu bằng cho uống Đương qui tố, Báo Y học Bắc kinh 1988,2:95).
11.Trị đau lưng đùi: Chích vào điểm đau dịch tiêm Đương qui và Xuyên khung ( một số ít chích bắp hoặc chích huyệt), hàng ngày hoặc cách nhật, 10 ngày là một liệu trình, có kết quả dùng tiếp, không kết quả ngưng dùng. Đã chữa trị hơn 1000 ca có đầy đủ tư liệu: 337 ca khỏi 215 ca, tiến bộ 112 ca, không kết quả 10 ca, tỷ lệ kết quả 97% ( Chu dụng Hào, Phép hoạt huyết hóa ứ trị lưng đùi đau. Tân trung y 1980,2:34).
12.Giảm đau sau phẫu thuật ngoại khoa lồng ngực: Sau phẫu thuật trước khi đóng lồng ngực, chích dịch tiêm Đương qui 5% vào vùng miệng phẫu thuật trên dưới 1 -2 gian sườn bao gồm vùng gian sườn có ống dẫn lưu, mỗi gian sườn 5ml. Đã trị 105 ca, kết quả tốt 84 ca, khá 16 ca, kém 5 ca, tỷ lệ số tốt và khá là 95,2% ( Khoa Ngoại Tổng Y viện Giải phóng quân Bắc kinh, dùng dịch tiêm Đương qui chống đau sau phẫu thuật lồng ngực, Tạp chí Tân y dược học 1976,12:26).
13.Trị bệnh gan:
Dùng viên Đương qui phức phương ( Đương qui, Đơn sâm lượng bằng nhau), mỗi viên 0,3g, 3 viên/lần x 3 lần/ngày, một liệu trình là 3 tháng. Trị 75 ca viêm gan mạn tính có TTT (+), có kết quả hồi phục trước mắt 49 ca (65,33%), có tác dụng giảm gamma globulin rõ ( Uông Thừa Bách, Báo cáo của Hội nghị toàn quốc về Trung tây y kết hợp điều trị bệnh tiêu hóa và viêm gan, Tạp chí Trung tây y kết hợp 1984,2:127).
Dùng trị viêm gan mạn và xơ gan: mỗi lần tiêm bắp dịch tiêm Đương qui 4ml (hàm lượng Đương qui 4g/1ml, ngày 1 lần, một số bệnh nhân uống Đương qui hoàn (chế phẩm của Xí nghiệp Phật từ, Lan châu), mỗi lần 15 viên x 2 - 3 lần/ngày, một liệu trình 2 tháng. Trị viêm gan mạn 10 ca, viêm gan tiến triển 7 ca, xơ gan 10 ca đều có tác dụng nhất định cải thiện triệu chứng và hồi phục chức năng gan ( Quan Mậu Hội và cộng sự, Quan sát sơ bộ Đương qui điều trị viêm gan mạn và xơ gan, Tin tức Trung y dược 1985,3:18).
14.Trị viêm thận cấp: dùng dịch tiêm Đương qui 0,3 - 1ml, chích vào các huyệt Thận du, Trung cực, Thủy tuyền hoặc các điểm nhạy cảm phụ cận, mỗi ngày 1 lần, huyệt vùng lưng lượng nhiều hơn, bệnh chuyển biến tốt, giảm lượng. Đã trị 33 ca trong đó 11 ca có dùng thêm trụ sinh và các thuốc khác, không hạn chế uống nước và muối. Toàn bộ khỏi trước mắt ( Long Đức Toàn, tiêm huyệt Đương qui trị 33 ca viêm thận cấp, báo Tân y học 1976,6:294).
15.Trị thống kinh: mỗi lần uống Đương qui tinh dầu hoàn 3 hoàn ( mỗi hoàn 50mg), ngày 3 lần, uống liền trong 15 - 20 ngày. Theo dõi 112 ca tỷ lệ giảm đau 76,79% (Cao Anh Mẫn và cộng sự, Hoàn Tinh dầu Đương qui trị thống kinh, theo dõi 112 ca Học báo Y học viện Lam châu 1988,1:36).
16.Thuốc trị chảy máu đường tiêu hóa: Dùng Đương qui sống nướng khô, tán bột, mỗi lần uống nuốt 4,5g, ngày 3 lần và tùy tình hình lúc vào viện truyền dịch, chế độ ăn bán lỏng. Đã trị 40 ca (loại các trường hợp xuất huyết thực quản). Kết quả tốt 30 ca, có kết quả 4 ca không kết quả 6 ca ( Tưởng Nhật Minh và cộng sự - Bột Đương qui trị 40 ca xuất huyết tiêu hóa trên Tạp chí Trung y Liêu ninh 1982,6:40).
17.Trị sa tử cung: dùng 50% dịch tiêm Đương qui (1ml có 9,5g thuốc sống), mỗi ngày tiêm mỗi bên huyệt Tam âm giao, Túc tam lý 2ml ( hoặc 2 bên giao nhau cách nhật) 1 lần, liệu trình đối với độ 1 là 7 ngày, độ 2 là 14 ngày, độ 3 là 21 ngày. Đã trị 67 ca, khỏi 27 ca, có kết quả 34 ca, không kết quả 6 ca, tỷ lệ có kết quả 90% ( Lý cửu Cao, chế dịch Đương qui 50%, Thông báo Dược học 1979,7:310).
18.Trị mất ngủ: dùng dịch tiêm Đương qui 4ml ( mỗi ống 2 ml 5% Đương qui), chích huyệt An miên 2 bên, mỗi bên 2 ml (dùng kim nhỏ số 5), mỗi ngày hoặc cách nhật 1 lần, 10 lần là một liệu trình. Theo dõi 50 ca, sau một liệu trình, khỏi 12 ca, có kết quả 32 ca, không kết quả 6 ca, tỷ lệ kết quả chung là 88% ( Vương Ninh Sinh, thủy châm dịch Đương qui trị mất ngủ 50 ca, Tạp chí Trung tây y kết hợp 1983,5:319).
19.Trị đái dầm: dùng 55 dịch tiêm Đương qui, thủy châm các huyệt sau: Thận du, Bàng quang du, Đại trường du, Quan nguyên, Trung cực, Tam âm giao, Điểm di niệu (điểm giữa nếp lằn ngang giữa 2 đốt 1 và 2 ngón út phía lòng bàn tay), mỗi lần chọn 3 - 4 huyệt, mỗi huyệt chích 0,5 - 1ml, ngày 1 lần, chích một tuần không kết quả ngưng chích. Đã trị 87 ca, theo dõi trên 2 năm, kết quả 1 lần chích khỏi 28 ca, 2 - 5 lần chích khỏi 34 ca, tiến bộ rõ 11 ca, 9 ca không được theo dõi ( Thang truyền Quân, Đương qui thủy châm trị đái dầm, Tạp chí Thầy thuốc chân đất 1977,4:21).
20.Trị viêm tắc động mạch: dùng 105 dịch chích tĩnh mạch Đương qui hoặc 255 dịch chích tĩnh mạch Đương qui 80 - 100ml, bệnh nặng gia thêm liều, chích hoặc truyền tĩnh mạch với dịch 10% 10 - 2-ml, với 25% 5 - 10ml, chích vào động mạch. Hoặc dùng 55 dịch tiêm bắp 5 - 20ml chích vào điểm huyệt nhạy cảm hoặc tiết đoạn thần kinh. Mỗi ngày 1 lần, một tuần 6 lần, 4 tuần là một liệu trình. Đã trị 52 ca, kết quả 88,5%, có tác dụng giảm đau, tăng tuần hoàn máu, tăng nhiệt độ ở da, chống phát sinh và phát triển hoại tử, tăng nhanh lành vết lóet ( Tổ Đương qui ngoại khoa Bệnh viện số 2 Viện Y học Hà bắc, Quan sát hiệu quả lâm sàng của dịch tiêm Đương qui đối với viêm tắc động mạch, Tạp chí Tân y dược học 1977,11:35).
21.Trị Herpes zoster: mỗi lần uống bột Đương qui 0,5 - 1g, cách 4 - 6giờ uống 1 lần. Trị 54 ca, bình quân 6 - 7 ngày khỏi. ( Lê Trung Phi và cộng sự, Hiệu quả của Đương qui trị 54 ca Herpes zoster, Tạp chí Trung hoa y học 1961, 5:317).
22.Trị Psoriasis: dùng 2% dịch tiêm Đương qui 4ml 2% Procain 4ml, trộn đều thủy châm huyệt vị, ngày 1 lần. Đã trị 100 ca, khỏi 80 ca, kết quả tốt 15 ca, có tiến bộ 5 ca ( Lương Đức Niên và cộng sự, Thảo luận về 200 ca Psoriasis, có chế phát bệnh và hiệu quả điều trị, Học báo Trung y dược 1981,4:34).
23.Trị chứng trọc đầu: dùng Đương qui, Bá tử nhân mỗi thứ 500g tán bột luyện mật làm hoàn bằng hạt đậu, mỗi ngày 3 lần, mỗi lần uống sau bữa ăn 9g. Đã trị hơn 40 ca, kết quả tốt ( Tiết Duy Chấn, Điều trị trọc đầu bằng Trung dược Báo trung y Thiểm tây, 1987,9:419).
24.Trị chàm, mề đay ( urticaire) và bệnh ngoài da: dùng dịch tiêm Đương qui thủy châm huyệt loa tai, thường dùng cách huyệt Tuyến thượng thận, nội tiết, thần môn, dưới vỏ não. Đối với chàm, mề đay gia Khu phế, bệnh sắc tố gia Khu Can, mỗi bên chọn 2 huyệt, mỗi huyệt chích 0,1 - 0,2ml, cách nhật, một liệu trình 10 - 20 lần. Đã trị 363 ca, tỷ lệ kết quả 90,75 ( Khoa Da liễu Y viện Trung tâm Thái nguyên, Quan sát hiệu quả điều trị chàm, mề đay và bệnh ngoài da bằng thủy nhĩ châm Đương qui, Tạp chí Y dương Sơn tây 1975,5:69).
25.Trị nứt nẻ hậu môn: Dịch tiêm Đương qui 2ml gia 1% Lidocain 3 - 5ml, chích vào đáy vùng nứt. Trị có theo dõi 114 ca, ttr lệ kết quả 96,5% ( Từ nguyên Khang, Nhận xét lâm sàng về điều trị nứt hậu môn bằng dịch tiêm Đương qui, Báo Trung y Thiên tân 1986,4:10).
26.Trị viêm xoang hàm mạn tính có mủ: trước rửa sạch hết nước và mủ trong xoang, rồi bơm vào nước Hoàng liên, Đương qui 5 - 8ml ( mỗi 100ml có Hoàng liên, Đương qui, mỗi thứ 20g, mỗi tuần 1 - 2 lần. Đã trị 302 ca, có 267 xoang, tỷ lệ khỏi 84,3%, tiến bộ tốt 9%, tỷ lệ kết quả 93,3% ( Chu chuẩn Thành, Trị viêm xoang hàm mạn tính có mủ bằng dịch Đương qui - Hoàng liên, Tạp chí Y học Trung hoa 1975,2:132).
27.Trị viêm mũi mạn: sau khi dùng cồn vô trùng da mũi, dùng 5% dịch Đương qui đã diệt khuẩn ( pH 5) 1ml gia thêm một ít 0,5% procain, dùng kim nhỏ số 41/2 chích vào hai huyệt Nghênh hương, mỗi bên 0,5ml, ngày 1 lần, 7 lần là một liệu trình. Đã trị 32 ca trong đó có 4 ca dị ứng viêm mũi đều khỏi, viêm mũi đơn thuần 17 ca, khỏi 13 ca, kết quả rõ 2 ca, giảm nhẹ 3 ca, không kết quả 1 ca ( Khoa Tai mũi họng Bệnh viện nhân dân số 4 Thành phố Cát lâm, giới thiệu dịch Đương qui thủy châm điều trị viêm mũi mạn, Tạp chí Tân y dược học 1974,9:17).
Ngoài ra còn dùng dịch Đương qui Hồng hoa ( 5% dịch Đương qui 0,5ml; 0,1% Hồng hoa 0,3ml) chích vào dưới niêm mạc mũi. Trị viêm mũi phì đại mạn 43 ca, tỷ lệ đạt kết quả 90,7% ( Lý Hồng Căn và cộng sự, Sơ bộ nhận xét về dịch Hồng hoa - Đương qui trị viêm mũi phì đại mạn tính, Tạp chí Y Trung cấp 1986,5:49).
28.Trị viêm họng mạn: dùng 50% dịch Đương qui chích vào huyệt nhạy cảm ở cổ ( thường vị trí huyệt cách đốt sống cổ 4 và 5 ra 2 bên 5 phân, tương đương huyệt Giáp tích Hoa đà), mỗi lần mỗi bên 0,5ml, ngày 1 lần, 10 lần là một liệu trình. Theo dõi 130 ca kết quả tốt ( Lý Trấn, Chích dịch 50% Đương qui vào huyệt nhạy cảm ở cổ trị viêm họng mạn tính 130 ca Tạp chí Trung y Liêu ninh 1986,4:39).
29.Trị điếc đột ngột: dùng dịch tiêm 200% Đương qui 20ml gia glucoz 5% 20ml, chích tĩnh mạch ngày 1 lần, mỗi liệu trình 5 ngày. Theo dõi 4 - 5 liệu trình, đã trị 105 ca, khỏi 21 ca, kết quả tiến bộ 29 ca, không kết quả 26 ca, tỷ lệ kết quả 75% tốt hơn tổ đối chiếu dùng Tây y ( Phùng Nghiêm và cộng sự, Quan sát lâm sàng điếc đột ngột bằng dịch tiêm nồng độ cao Đương qui, Tạp chí Trung tây y kết hợp 1986, 9:536).
30.Trị viêm xơ tổ chức xốp ngọc hành: dùng 10% dịch Đương qui 2ml gia 2% Procain 1ml chích vào đường cứng quanh tổ chức xốp, mỗi tuần 1 lần. Đã trị 2 ca khỏi sau 5 và 10 lần chích ( Lỗ Hiệp và cộng sự, Dịch Đương qui trị khỏi 2 ca viêm xơ tổ chức xốp Ngọc hành, Báo Y học Bắc kinh 1980,1:47).
31.Giới thiệu một số bài thuốc kinh nghiệm:
Trị chảy máu cam không ngừng: Đương qui sao khô, tán nhỏ, mỗi lần uống 4g với nước cháo, ngày 2 - 3 lần.
Dưỡng não hoàn: Đương qui 100g, Viễn chí 40g, Xương bồ 40g, Táo nhân 60g, Ngũ vị 60g, Kỷ tử 80g, Đởm tinh 40g, Thiên trúc hoàng 40g, Long cốt 40g, Ích trí nhân 60g, Hổ phách 40g, Nhục thung dung 80g, Bá tử nhân 60g, Chu sa 40g, Hồ đào nhục 80g. Tất cả tán thành bột thêm mật ong viên thành viên nặng 4g. Ngày uống 2 lần, mỗi lần 1 viên, uống liền 15 ngày.
Liều lượng thường dùng và chú ý:
Liều thường dùng: 5 - 15g. Dùng ngoài tùy theo bệnh lý.
Trường hợp bổ huyết, cải thiện tuần hoàn, táo bón dùng liều cao, có thể dùng đến 40 - 80g.
Theo Y học cổ truyền bổ huyết dùng Đương qui thân, Hoạt huyết hóa ứ dùng Đương qui vĩ, Hòa huyết ( vừa bổ vừa hoạt) dùng toàn Đương qui. Đương qui đầu ít dùng một mình.
Theo kết quả nghiên cứu của Sở nghiên cứu Trung dược thuộc Viện nghiên cứu Trung y Trung quốc phân tích thành phần hóa học kết luận: Đương qui đầu và vĩ có thành phần hóa học giống nhau. Sau đó, Y học viện Tây an dùng 8% Đương qui đầu, vĩ và thân sắc nước tiến hành thực nghiệm trên súc vật. Kết quả chứng minh: cả 3 loại đều có tác dụng hưng phấn rõ trên cơ trơn tử cung, không có gì khác biệt ( Phùng Bảo Lân chủ biên, sách cổ kim Trung dược bào chế sơ thám, trang 175, Nhà xuất bản Khoa học Kỹ thuật Sơn đông xuất bản năm 1984).
Và cuối cùng là Đương quy ứng dụng cực kỳ nhiều trong Công thức tăng AMH thấp và nội mạc tử cung có vấn đề bệnh lý.